Nông nghiệp Nhật Bản ngày xưa và bây giờ.
Trước cuộc cải cách Duy Tân Minh Trị năm 1868, đã có đến 80% dân số Nhật Bản làm nông nghiệp và lúa là nông sản chính. Thời đấy ở Nhật các phương pháp thâm canh cần nhiều lao động, mỗi một hộ gia đình cũng chỉ có 1 phần diện tích ruộng hạn chế
Nông nghiệp của Nhật Bản bắt đầu cùng với việc trồng lúa. Và trong số những loại cây nông nghiệp được trồng tại Nhật Bản từ ngày xưa còn có lúa mì, lúa mạch, kê và đỗ tương cùng củ cải. Những nông cụ cổ nhất làm bằng gỗ hay đá. Khi kỹ thuật xuất xuất hiện giúp sản xuất ra các dụng cụ bằng sắt thì nông nghiệp đạt tiến bộ nhanh chóng và những vùng đất đai bị bỏ hoang suốt thời gian dài để được tận dụng để canh tác.
Vào cuối thời Heian (794-1185), các gia đình có thế lực nổi lên ở các tỉnh và trở nên giàu có từ sản xuất nông nghiệp. Khi đã kiểm soát được chính quyền trong thời Kamakura (1185-1333), họ tỏ ra rất quan tâm đến nông nghiệp nhiều hơn so với giới cai trị trước đó và khuyến khích được nhiều cải tiến.
Với sự xuất hiện của nhiều thành phố cùng thị trấn trong thời Edo (1603-1868), tỉ lệ dân số không làm nghề nông được tăng lên với các nông dân bị đòi hỏi phải sản xuất ngày càng nhiều hơn nữa.
Song hơn 1 nửa số gạo sản xuất ra bị thu dưới hình thức thuế đất đai và nông dân thường xuyên không còn đủ để đáp ứng nhu cầu của chính bản thân. Họ còn phải trồng thêm lúa mạch, lúa mì hay kê. Sản lượng nông nghiệp được tăng lên nhờ những nỗ lực trong cả 3 lĩnh vực bao gồm : khai hoang, phân bón cùng lai giống cây trồng.
Trong giai đoạn Nhật Bản tích cực hướng tới hiện đại hóa sau Minh Trị Duy Tân, các phương pháp canh tác của phương Tây được con người nghiên cứu kỹ lưỡng.
Song do điều kiện tự nhiên của đất đai ở Nhật hoàn toàn khác so với ở phương Tây, chỉ áp dụng cách trồng cấy với những kỹ thuật của nước ngoài thì không hiệu quả.Vì vậy người ta thay đổi trọng tâm rồi trở lại coi gạo là sản phẩm chính cùng phát triển những phương pháp thâm canh.
Nhà nước lập những trung tâm thử nghiệm để tiến hành lai ghép nhiều loại cây nông nghiệp quan trọng.
Trong số tất cả những chương trình cải cách sau Thế chiến thứ 2, có lẽ là cuộc cải cách ruộng đất vào năm 1946 là thành công nhất trong việc tạo ra những thay đổi cơ bản và rộng khắp tại Nhật Bản.
Việc phân phối lại đất đai 1 cách mạnh mẽ đã gần như chấm dứt tình trạng thuê đất vào những năm 1949 dẫn đến kết quả là khoảng 90% đất canh tác do chính những người sở hữu tự trồng cấy.
Trong tình trạng thiếu lương thực sau chiến tranh, giá cả cao cùng sự tồn tại của 1 chợ đen buôn bán gạo và lạm phát trong xã hội. Lúc đấy chính là những yếu tố tạo thuận lợi cho các nông dân của Nhật Bản. Nói chung họ đã trả nợ cho diện tích ruộng đất mới của mình khá dễ dàng để bắt đầu đầu tư vốn để hợp lý hóa nền nông nghiệp.
Chính phủ giúp đỡ nhà nông bằng cách lập ra các chương trình hỗ trợ giá, nhất là đối với gạo. Chính phủ cũng đã dành sự ủng hộ mạnh mẽ cho các trường kỹ thuật nông nghiệp và các trung tâm thử nghiệm cùng các chương trình mở rộng.
Các hợp tác xã nông nghiệp luôn đẩy mạnh những hoạt động tích cực kể trên của chính phủ bằng cách cho vay với lãi xuất rất thấp và tiến hành tiếp thị theo nhóm trong cấp độ làng xã.
Kết quả cuối cùng là hình thành 1 lực lượng nông dân tương đối dư giả, có học thức, được ưu đãi và có cả vốn cần thiết để mua giống mới cũng như phân bón để tăng sản lượng, đồng thời mua máy móc nhằm mục đích giảm bớt nhu cầu về lao động.
Nhật Bản bắt đầu bị thiếu lao động vào những năm cuối thập niên 50, sau khi bắt đầu tăng trưởng nền kinh tế nhanh chóng. Nhu cầu lớn về lao động ở các trung tâm công nghiệp đô thị khiến cho ngày càng khiến nhiều người rời bỏ nông thôn. Một phần lớn trong lực lượng làm nghề nông lúc đó là những người trên 45 tuổi.
Bên cạnh đấy, có rất nhiều người chỉ làm nghề này theo thời vụ và hơn 1 nửa lực lượng lao động là phụ nữ. Xu hướng đi xuống này kéo dài cho tới tận bây giờ . Nếu năm 1960 có 26,8% lực lượng lao động là nông dân thì đến năm 1995 chỉ còn lại 5,1%. Năm 1965, thu nhập từ nền nông nghiệp của mỗi hộ gia đình nông dân chỉ còn chiếm 48% tổng thu nhập, nhưng đến năm 1996 chỉ còn 21,1% nữa.
Theo thống kê của Bộ nông lâm ngư nghiệp thì tổng thu nhập bình quân hằng năm của 1 hộ gia đình nông dân Nhật Bản trong năm 1996 là 6.647.400 yên, tính theo tỉ giá lúc đó là vào khoảng 64.000 đôla.
Dường như nền nông nghiệp Nhật Bản không thể thành công nếu không có sự phổ biến của máy móc cùng hóa chất và những thiết bị giúp tiết kiệm lao động.
Hiện nay việc canh tác hầu như được làm bằng máy. Các phương pháp canh tác truyền thống nhanh chóng nhường chỗ lại cho các máy cày, máy ủi cùng nhiều loại máy móc khác. Nhờ tất cả những yếu tố đấy, tổng sản lượng gạo của Nhật Bản tăng từ 9,5 triệu tấn trong năm 1950 lên đến 13 triệu tấn vào năm 1975.
Nhưng mức tiêu thụ gạo tính theo đầu người đã giảm đi và chính phủ đang rất lo ngại với nhiều vấn đề như sản xuất quá nhiều cùng sự tồn kho quá lớn. Các nông dân được khuyến khích, có khi được trợ cấp nhằm chuyển từ trồng gạo sang các loại khác.
Chính sách này điều chỉnh sản xuất của chính phủ đã khiến bị thiếu gạo vào năm 1993 do sản lượng gạo quá thấp. Những thay đổi về thói quen ăn uống của người Nhật Bản cũng làm tăng mức sản xuất thịt cùng các sản phẩm sữa và rau quả.